Từ điển
Dịch văn bản
 
Tất cả từ điển
Tra từ
Hỏi đáp nhanh
 
 
 
Kết quả
Vietgle Tra từ
Chuyên ngành Anh - Việt
Novell Netware Protocols
|
Tin học
Các giao thức mạng Novell Netware Giao thức hoạt động của mạng Netware nguyên thủy là IPX (Internetwork Packet Exchange:trao đổi gói tin liên mạng). Nó bắt nguồn từ XNS (Xerox Network System: Hệ thống mạng Xerox) được xây dựng từ thập niên 70. Hiện nay, một số hệ điều hành mạng khác, bao gồm Windows NT, và các giao thức IPX, cùng sắp xếp lại để tạo ra khả năng phối hợp hoạt động với Netware cũng như với các trình ứng dụng hay thiết bị tương thích với Netware. Một số client mạng cũng hỗ trợ các giao thức của Novell Netware, trong đó có MicroSoft Windows. Hình N-21. Các giao thức liên mạng của NetWare trong mối tương quan vơí mô hình tham chiếu của OSI. Cũng giống như IP (Internet Protocol), IPX là giao thức liên mạng, cung cấp các dịch vụ truyền dữ liệu. Các giao thức liên mạng hoạt động trên các tầng, và gồm có các dịch vụ dò đường, như trình bày trong hình N-21. Các thành viên khác của bộ giao thức Novell Netware là SPX (Sequenced Packet Exchange: Trao đổi gói tin có trình tự), trong tầng chuyển tải. Khi so sánh với bộ giao thức TCP/IP, IPX cung cấp quá trình dò đường và các dịch vụ liên mạng tương tự với IP, và SPX cung cấp các dịch vụ tầng truyền tải tương đương với TCP (Transmission Control Protocol). IPX và IP đều là các giao thức truyền dữ liệu phi liên kết, trong khi SPX và TCP đều là các giao thức hướng liên kết. Xin xem “Connection-Oriented and Connectionless Services” để có thêm các thông tin khác. Chi tiết về IPX và SPX Các gói tin kiểu IPX bao gồm khối dữ liệu và khối tiêu đề IPX dài 30 byte chứa các địa chỉ mạng, nút và địa chỉ socket, cho cả hệ thống nguồn và đích. Kích thước tối thiểu của gói là 30 byte và tối đa là 65535 byte. Trong hầu hết các trường hợp thực tế, các gói tin tải trên trên mạng được bảo đảm độ tin cậy trong trường hợp có kích thước dao động quanh 1500 byte. Hình N-22 minh họa cấu trúc một gói IPX. Mỗi trường trong gói tin được mô tả sau đây: Checksum Kiểm tra trình trạng toàn vẹn. Packet length Chiều dài gói tin tính bằng byte. Transport control Số lượng bộ định tuyến mà gói tin có thể đi qua trước khi bị hủy bỏ. Packet type Xác định đặc điểm dịch vụ đã rạo ra gói tin (bao gồm NCP, NetBIOS, NLSP, RIP, SAP hay IPX, sẽ được mô tả sau trong đề tài nầy). Destination Network địa chỉ mạng đích. Destination node địa chỉ MAC của nút đích. Destination socket địa chỉ của socket tại nút đích. Source network địa chỉ mạng nguồn. Source node địa chỉ MAC của nút nguồn. Source socket địa chỉ của socket tại nút nguồn. Hình N-22. Cấu trúc của datagram IPX. Các địa chỉ IPX bao gồm một địa chỉ mạng và một địa chỉ nút. Các địa chỉ mạng được khai báo khi cài đặt server đầu tiên trên mạng cục bộ Netware. Địa chỉ nút là địa chỉ phần cứng được ghi trên card giao diện mạng. Địa chỉ socket để nhận diện phần mềm xử lý đang hoạt động trên máy tính. Địa chỉ IPX đầy đủ là một con số hệ thập lục phân 12 byte, trông như chuỗi sau: 4A87B321 14594EA21AE0119 Nếu đây là địa chỉ nơi đến (đích), mỗi giá trị lần lượt là trường mạng đích (destination network field), trường nút đích (destination node field) và trường socket (socket field) của gói tin đang đi ra. SPX là giao thức liên kết hướng kết nối hoạt động trên tầng transport. Nó thiết lập các liên kết khởi đầu giữa các nút trên liên mạng, độc lập với các liên kết dữ liệu dưới quyền của các bộ định tuyến liên kết thuộc mạng Lan. Khi SPX được sử dụng, một phiên làm việc được thiết lập giữa hai hệ thống truyền thông thì các gói tin mới được trao đổi. SPX sử dụng IPX cho các dịch vụ phân phát gói tin và bảo đảm cho việc phân phối dữ liệu, trong khi IPX không thể làm điều nầy. Các giao thức dò đường mạng Netware Netware sử dụng 2 giao thức dò đường RIP (Routing Information Protocol) và NLSP (Netware Link Services Protocol). RIP là giao thức dò đường truyền thống của Netware, nhưng nó đang được thay thế bởi NLSP. Cả RIP và NLSP đều có thể được sử dụng trên cùng một liên mạng cho tới khi các tổ chức hoàn thành việc chuyển sang sử dụng NLSP. RIP là giao thức dò đường kiểu “vector khoảng cách”. Các bộ định tuyến truyền thông định kỳ các gói tin đến các bộ định tuyến “hàng xóm” nào có thông tin mới nhất về bảng dò đường. Khi 01 bộ định tuyến nhận được bảng tin dò đường mới, nó tiến hành quá trình cũng cố thông tin nầy với những thông tin mà nó đã có. Khi quá trình củng cố hoàn tất thì bộ định tuyến nầy có được những thông tin mới nhất về quá trình dò đường. Vấn đề trở ngại với RIP là việc nó truyền thông tin dò đường đi dù các cập nhật có cần thiết hay không, điều nầy làm gia tăng lưu thông trên mạng. Novell hiện đang sử dụng NLSP để nâng cấp cho các mạng IPX bởi vì NLSP hiệu quả hơn nhiều về việc duy trì các đường dẫn trên mạng. Giao thức dò đường link-state (trạng thái liên kết) theo dõi tình trạng các bộ định tuyến và nối kết khác để có thể làm thích nghi nhanh chóng các thay đổi trên địa hình mạng. Xin xem mục “NLSP (Netware Link Services Protocol)” để biết thêm thông tin. Giao thức quảng cáo Dịch vụ Các server và bộ định tuyến trên mạng Netware sử dụng SAP để truyền các thông điệp trên khắp mạng mỗi 60 giây để quảng cáo các loại dịch vụ nào có thể cung cấp cho người sử dụng. SAP thì tương tự như RIP về khả năng cho phép các thiết bị mạng trao đổi các thông tin về sự sẵn nàng của các dịch vụ trên mạng. Tuy nhiên, phương pháp truyền tin kiểu SAP có thể phát sinh các lưu thông không cần thiết cho hệ thống mạng, đặc biệt trong khi các server đang sử dụng dịch vụ khác để tìm thiết bị trên mạng như NDS (Novell Directory Services). Ngoài ra, phương pháp truyền tin SAP không có tác dụmg mấy đối với các máy trạm ở quá xa trên không gian liên kết rộng. Để giảm phạm vi truyền SAP, bạn có thể tăng khoảng thời gian giữa 02 lần tin đi (interval) hay sử dụng các bộ lọc cung cấp bởi Novell để giảm sự lưu thông của SAP trên khắp không gian liên kết rộng. Giao thức lõi của mạng Netware NCP là giao thức chính quản lý các yêu cầu dịch vụ giữa các server và client. NCP điều hành các yêu cầu đăng nhập hệ thống (logon) và nhiều loại yêu cầu khác đối với hệ thống quản lý tập tin và máy in. IPX là giao thức cơ sở thực hiện quá trình chuyển tải, còn NCP là giao thức cho mạng Lan, ban đầu được thiết kế để đảm đương mối quan hệ giữa các server và các máy trạm. Khi một bộ định tuyến trở nên phức tạp và các kết nối được tạo ra khắp các liên kết mạng diện rộng, NCP sinh ra sự tắc nghẽn. Nó sử dụng một sơ đồ “hỏi/đáp” để xử lý sự liên lạc giữa server và workstation. Nếu workstation đưa ra một yêu cầu, trước hết nó phải đợi được trả lời từ server, rồi mới đưa ra yêu cầu khác. Điều nầy cũng làm gia tăng lưu thông mạng. Từ mục liên quan NDS (Novell Directory Srevices); NLSP (NetWare Link Services Protocol); Novell; Novell IntranetWare; and Routing Protocols and Algorihms Thông tin trên internet Novell, Inc. http://www.novell.com TCPIP and IPX Routing Tutorial http://www.sangoma.com/fguide.htm NetWare FAQ http://kawnug.oznet.ksu.edu/novell/faq/nov-faq.htm Novell Resources list at Network Professionals Resources Center http://www.inetassist.comurl15.htm Novell List Archive http://www.dfm.dtu.dt/netware/nov-1st