Từ điển
Dịch văn bản
 
Từ điển Anh - Việt
Tra từ
 
 
Dịch song ngữ - Y học - Sức khoẻ
A question of attitude
Vấn đề về thái độ sống
TELOMERES are to chromosomes what plastic caps are to shoelaces—they stop them fraying at the ends. Unlike shoelaces, though, chromosomes replicate themselves from time to time as the cells they are in divide. This shortens the telomere and, after 50-70 such divisions (a number known as the Hayflick limit, after its discoverer), a chromosome can grow no shorter and the cell it is in can divide no more.
Gen kết thúc đối với nhiễm sắc thể giống như miếng bịt nhựa đối với dây giầy - ngăn chặn chúng bung ra ở đầu cuối. Mặc dù vậy, không giống như dây giầy, nhiễm sắc thể thỉnh thoảng tự sao chép như những tế bào chúng đang phân chia. Sự tự sao chép sẽ làm ngắn lại gen kết thúc và, sau 50-70 lần phân chia như thế (con số này gọi là giới hạn Hayflick, sau khi có người khám phá ra nó), lúc đó một nhiễm sắc thể không thể phát triển ngắn hơn được nữa và tế bào chứa nó không thể phân chia được nữa.
A question of attitude

The link between chronic stress and a marker of old age is being disentangled

TELOMERES are to chromosomes what plastic caps are to shoelaces—they stop them fraying at the ends. Unlike shoelaces, though, chromosomes replicate themselves from time to time as the cells they are in divide. This shortens the telomere and, after 50-70 such divisions (a number known as the Hayflick limit, after its discoverer), a chromosome can grow no shorter and the cell it is in can divide no more.

That provides a backstop against cancer. The rapidly dividing cells in a tumour soon hit the Hayflick limit and the process is brought to a screeching halt. Which is a good thing. The bad thing is that reaching the limit is one of the markers of old age. You do not want it to happen too quickly, particularly in tissues that have to do a lot of dividing in order to work properly, such as those in the immune system.

It has been known for some time that chronic stress (caring for a child with a protracted illness, for example) causes premature shortening of the telomeres. What has not been clear is whether this is a one-way trip, with each stressful period turning the telomeric ratchet irreversibly. This week, though, at a meeting of the American Association for Cancer Research in Orlando, Florida, a group of researchers led by Edward Nelson of the University of California, Irvine, showed that it isn’t. Their research suggests that stress management not only stops telomeres from shortening, it actually promotes their repair.

Dr Nelson drew this welcome conclusion from a previous study that measured the impact of telephone counselling on women who had been treated for cervical cancer. The study found that such counselling worked, both mentally and physically. Women who had been counselled reported that the quality of their lives had improved, compared with those of a control group who had not been counselled. They also showed improvements in the strength of their immune systems.

Given those benefits, Dr Nelson wondered if he could find others, and he re-examined the participants’ samples to look at the lengths of the telomeres in their white blood cells (red cells have no nuclei, and therefore no chromosomes). What he found surprised him. Not only did counselling stop telomere shrinkage, it actually promoted telomere growth. Those women for whom counselling had worked (ie, those who reported a decrease in emotional stress) had longer telomeres at the end than they did at the beginning. Their Hayflick countdowns were being reset.

A single such result must, of course, be treated with caution. But another study reported at the meeting, by Elizabeth Blackburn of the University of California, San Francisco (who shared the Nobel prize for the discovery of the enzyme that repairs telomeres), gave some support. This showed that exercise has a similar effect to counselling on the telomeres of the stressed.

If Dr Nelson’s work is successfully replicated, it will shine more light on the ill-understood relationship between the health of the mind and the health of the body. For, as he points out, nothing actually changed in the lives of the women in question. They still had cancer, albeit under treatment, and they were still under stress. Nothing, that is, except their attitude.

A question of attitude

Mối liên ̣ giữa căng thẳng thường xuyên dấu hiệu tuổi già đang được làm rõ

Gen kết thúc đối với nhiễm sắc thể giống như miếng bịt nhựa đối với dây giầy - ngăn chặn chúng bung rađầu cuối. Mặc dù vậy, không giống như dây giầy, nhiễm sắc thể thỉnh thoảng ̣ sao chép như những tế bào chúng đang phân chia. ̣ ̣ sao chép sẽ làm ngắn lại gen kết thúc , sau 50-70 lần phân chia như thế (con số này gọi giới hạn Hayflick, sau khingười khám phá ra ), lúc đó một nhiễm sắc thể không thể phát triển ngắn hơn được nữa tế bào chứa không thể phân chia được nữa.

Nó sẽ đóng vai trò như cái le chặn lại căn bệnh ung thư. Các tế bào phân chia nhanh chóng trong khối u chẳng mấy chốc chạm giới hạn Hayflick quá trình này sẽ như cái phanh rít lại. Vậy điều ích lợiđâygì. Điềuhại việc đạt đến giới hạn này sẽ  như một trong những dấu hiệu của tuổi già. Bạn không muốnxảy ra quá nhanh, đặc biệt trong các chúng phải phân chia nhiều để hoạt động tốt, giống như những trong hệ miễn dịch.

Lâu nay chúng ta biết đến một lúc nào đó ̣ căng thẳng thường xuyên (ví dụ chư chăm sóc một đứa trẻ bệnh lâu ngày) sẽ làm ngắn lại sớm gien kết thúc. Điều người ta chưa liệu đâyphảichuyến đi một chiều không, với mỗi thời kỳ căng thẳng sẽ quay bánh răng cưa gen kết thúc theo chiều xuôi. Dù vậy, trong tuần này, tại cuộc họp của Hiệp hội nghiên cứu bệnh ung thư MỹOrlando, Florida, một nhóm các nhà nghiên cứu dẫn đầu bởi Edward Nelson của đại học California, Irvine, đã chứng minh không phải vậy. Nghiên cứu cho biết chế ngự căng thẳng không chỉ ngăn chặn gen kết thúc ngắn đi, mà nó thực sự đẩy mạnh ̣ phục hồi.

Tiến Nelson đã đưa ra kết luận đáng hoan nghênh này từ nghiên cứu trước đây đo lường ảnh hưởng của cuộc vấn qua điện thoạinhững phụ nữ đã được điều trị ung thư cổ tử cung. Nghiên cứu nhận thấy những cuộc vấn như thế có hiệu quả, ̀ cả tâm thần lẫn thể chất. Những phụ nữ được vấn cho biết chất lượng cuộc sống của họ đã được cải thiện, so với những người trong nhóm đối chứng không được vấn. Họ cũng cho thấy ̣ cải thiện ̀ sức mạnh của hệ miễn dịch.

Căn cứ vào các lợi ích đó, Tiến Nelson không biết liệu ông thể tìm những người khác, ông kiểm tra lại mẫu những người tham gia để quan sát đoạn gen kết thúc trong bạch cầu của họ (hồng cầu không nhân, do đó không thấy nhiễm sắc thể nào). Những phát hiện làm ông thật ̣ bất ngờ. Không chỉ việc vấn làm cho gen kết thúc ngưng co lại, thực sự đẩy mạnh ̣ tăng trưởng của gen kết thúc. Những phụ nữviệc vấnhiệu quả (nghĩa là, những người báo cáogiảm căng thẳng ̀ mặt cảm xúc) gen kết thúc dài hơn vào lúc cuối so với gien lúc họ có vào lúc đầu. ̣ đếm ngược con ́ giới hạn Hayflick của họ cũng đang được thiết lập trở lại.

Mỗi một kết quả như thế, nhiên, phải được cân nhắc một cách thận trọng. Nhưng một nghiên cứu khác báo cáo lại tại cuộc họp, thực hiện bởi Elizabeth Blackburn thuộc đại học California, San Francisco (người đồng đoạt giải - ben ̀ tìm ra en-zim phục hồi gen kết thúc), cũng ̃ trợ thêm chi tiết. Điều này cho thấy việc rèn luyện thể cũng tác dụng tương tự như vấn ̀ gen kết thúc đối với những người bị căng thẳng.

Nếu công trình nghiên cứu của Tiến Nelson được lặp lại thành công, sẽ làm rõ hơn mối quan ̣ đã được hiểu sai lệch giữa sức khoẻ tâm thần sức khoẻ thể lực. Vì vậy, như ông chỉ ra, không thực sự thay đổi cuộc sống của những phụ nữ đang được nói đến. Họ vẫn còn căn bệnh ung thư, mặc đang được điều trị, họ vẫn còn căng thẳng. Khôngthể thay đổi được ngoại trừ thái độ của họ.

 
Đăng bởi: xathutreonhanhdudu
Bình luận
Đăng bình luận
Bình luận
Đăng bình luận
Vui lòng đăng nhập để viết bình luận.