Mỗi khi có gì đó sai sót bị công chúng phát hiện, người ta nhanh chóng dồn sự chú ý vào để truy đến cùng những người đáng bị lên án vì lỗi lầm họ gây ra. Căn cứ vào tiếng nổ rất lớn và vang xa của quả bong bóng nhà đất, cuộc khủng hoảng tín dụng và tình trạng suy thoái kinh tế diễn ra, thì việc điểm mặt vạch tên và chỉ trích những người có trách nhiệm đã trở thành cái gì đó quá ư là quen thuộc.
Trong khi việc tìm những người như vậy để quy trách nhiệm chưa thể thực hiện được và không làm biến mất cuộc khủng hoảng, thì mặc dù vậy cũng phần nào giúp người ta khuây khoả đôi chút và cũng là quá trình hồi phục. Với suy nghĩ như vậy, chúng ta hãy thử xem xét một vài người đã thu hút sự quan tâm của công chúng về vai trò của họ trong cuộc khủng hoảng, cũng như một số người có thể đã trốn tránh được phần trách nhiệm của mình một cách bất công.
1. Người môi giới bất động sản
David Lereah, cựu chuyên gia kinh tế cao cấp của Hiệp hội các nhà môi giới bất động sản quốc gia, là một người trực tính tạo ra sự lôi cuốn đầu tư nhà đất thông qua cơn sốt. Viết những cuốn sách có nhan đề "Vì sao thời kỳ hưng thịnh của thị trường bất động sản sẽ không chấm dứt" (2006) và ám chỉ những người hoài nghi thị trường nhà đất là "Những chú gà con", Lereah gạt bỏ suy nghĩ về một quả bong bóng và có thể đã góp thêm lửa vào một thị trường vốn đã quá nóng.
2. Người cho vay
Nhiều giám đốc điều hành ngân hàng đáng bị chỉ trích về hành vi lèo lái một cách điên cuồng các công ty của họ vào những hoạt động cho vay khó đòi, nhưng chủ tịch Angelo Mozilo của Countrywide thì có thể còn đáng bị lên án hơn. Công ty Countrywide là một nhà bao tiêu năng động của những khoản cho vay dưới chuẩn đã gây ra vấn đề gây đau đầu về con số hàng tỷ đô la cho ngân hàng tiếp quản Countrywide là Ngân hàng Mỹ quốc khi phải giải quyết những khoản cho vay khó đòi trước đây với Fannie, Freddie và những người mua cá nhân.
3. Ngân hàng đầu tư
Các ngân hàng đầu tư gánh phần việc từ các ngân hàng thương mại, mua những khoản vay thiếu cân nhắc của họ, biến chúng thành những gói chứng khoán đầu tư có nhãn thượng hạng (AAA), sau đó bán những gói hàng này cho các quỹ hưu trí, quỹ phòng hộ và những nhà đầu tư thuộc tổ chức lấy khoản lợi nhuận kha khá. Có rất nhiều người bị chỉ trích quanh chuyện này, từ những ngân hàng đầu tư/thương mại cổ phần như Citigroup đến những ngân hàng đầu tư như Goldman Sachs, và họ chắc chắn đã tiếp tay rót một số tiền khổng lồ vào thị trường nhà đất (dĩ nhiên là trong khi đang tiến hành cắt giảm).
4. Cơ quan đánh giá tín nhiệm
Về vai trò của những người đóng con dấu cao su hạng cao nhất (AAA) cho những đống hàng kém chất lượng, thì tất cả các công ty Standard & Poor's, Moody's và Fitch đều đáng bị chỉ trích về tính lành mạnh. Nếu những cơ quan đánh giá tín nhiệm này tiến hành nghiên cứu kỹ lưỡng hơn, nghi ngờ những giả thiết của mình nhiều hơn, và tránh những rủi ro về mặt đạo đức khi làm việc quá gần gũi với những nhà phát hành đã trả công cho mình, thì quả bong bóng có thể sẽ không bao giờ phồng căng lên lớn đến như vậy.
5. Người mua nhà
Sẽ là thiếu sót nếu bỏ qua hết cho những người "khách hàng thường xuyên" đã có vai trò trong đống đổ nát đó. Tiền cho vay của kẻ nói dối đòi hỏi một kẻ nói dối tự nguyện ký đơn vay, và hàng triệu người tiêu dùng vung tay quá trán trong những năm cuối thế kỷ 20 và đầu 21, cũng có tác động đến cuộc khủng hoảng. Một quả bong bóng cho vay không thể xuất hiện nếu không có sự bắt tay của những người đi vay, và công chúng Mỹ nói chung có vẻ đều rất sẵn lòng tin vào hình ảnh kỳ diệu của quả bong bóng nhà đất và tín dụng dễ dãi.
Các nhà quản lý
Bill Clinton và Quốc hội
Trong thời gian làm tổng thống của mình, Bill Clinton yêu cầu thực thi quyết liệt hơn Đạo luật Tái đầu tư Cộng đồng (một đạo luật có tuổi thọ hàng thập kỷ) và gia tăng hoạt động cho vay của ngân hàng đối với các nhóm thu nhập thấp. Điều này không tạo nên thị trường cho vay thế chấp dưới chuẩn, nhưng dường như nhằm đẩy mức tín dụng thấp hơn và giảm bớt các yêu cầu thanh toán nói chung. Cùng thời điểm đó, tâm thế bãi bỏ quy định của cả hai đảng trong Quốc hội dẫn đến quy định lỏng lẻo và giám sát thiếu chặt chẽ của các ngân hàng và những sản phẩm tài chính mới như hợp đồng bảo hiểm nợ xấu.
Bộ trưởng tài chính
Henry Paulson, Bộ trưởng tài chính của Tổng thống Bush từ tháng 7 năm 2006 đến tháng 1 năm 2009, dường như chậm chễ trong việc đối phó với cuộc khủng hoảng và không làm được gì cho thị trường khi ông này không ngăn nổi tình trạng lộn xộn và phá sản hỗn loạn của Lehman Brothers. Như đã nói, Paulson có thể sẽ được người ta tán tụng về việc sớm bảo lãnh cứu nguy tài chính mà ít nhất cũng ổn định thị trường trong giai đoạn lộn xộn bất thường.
Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang
Alan Greenspan có vẻ xứng đáng bị chỉ trích nhiều hơn. Trong khi ông đã bị người ta quy trách nhiệm về chính sách duy trì lãi suất thấp bất thường trong giai đoạn bong bóng, thì thực tế ông còn dùng biện pháp không can thiệp vào cái quy định vốn rất khó hiểu. Cục Dự trữ Liên bang tồn tại ít nhất phần nào là để kiểm soát và giám sát các ngân hàng, và theo Đạo luật Bảo vệ Tài sản và Quyền sở hữu Nhà năm 1994, Greenspan có thể ra các quy định buộc các ngân hàng hạn chế một số hoạt động quá đáng nhất liên quan đến những khoản vay của kẻ nói dối và cho vay quá mức, nhưng ông ta quyết định không làm như vậy.
Mặc dù ông là người phải gánh vác hết trách nhiệm khi Greenspan rời vũ đài, vẫn có ý kiến cho rằng Ben Bernanke là kẻ chủ chiến về quy định hay các lãi suất cao trước đó. Vào thời điểm này, vai trò của ông trong cuộc khủng hoảng tài chính vẫn đang tiếp tục là đề tài của báo giới - những nước cờ như là "giải cứu" Bear Stearns, Chương trình giải cứu tài sản có vấn đề (TARP), những hành động bảo lãnh cứu nguy tài chính khác, các lãi suất thấp một cách đặc biệt và vân vân có giúp giảm bớt mức độ trầm trọng của cuộc khủng hoảng, hay chúng chỉ làm tồi tệ thêm hoặc kéo dài thời gian thanh toán nợ nần đây?
Bộ trưởng Tài chính hiện nay
Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, chúng ta phải xét đến trường hợp đương kim Bộ trưởng Tài chính Timothy Geithner. Không rõ là với tư cách một thành viên của Uỷ ban Liên bang về Thị trường mở rộng và Chủ tịch Cục dự trữ liên bang New York vào thời điểm đó Geithner có khuynh hướng thẳng tay trừng trị những hành vi quá đáng của ngân hàng hơn những người khác trong Cục Dự trữ Liên bang hay không. Geithner từng là một người ủng hộ mạnh mẽ cho các hoạt động bảo lãnh cứu nguy tài chính và tái cơ cấu lúc đầu mà nhiều người hiện nay cảm thấy ông quá tốt bụng với ngành ngân hàng. Cho dù những người ủng hộ sẽ nói rằng Hoa Kỳ cần các ngân hàng chức năng để tránh thời kỳ suy thoái chuyển sang giai đoạn khủng hoảng, những người khác lại biện luận là việc chấp nhận rộng rãi các nhược điểm của các ngân hàng thương mại và các công ty ở Phố Wall không ngăn cản được kẻ phạm pháp làm đầy tài khoản.
Lịch sử sẽ là người phán xét sau cùng
Có lẽ phải một hoặc hai thập niên sau người ta mới có thể hiểu biết và giải thích đầy đủ về quả bong bóng nhà đất và hậu quả về mặt tài chính của nó. Mặc dù hiện tại ai cũng biết là có nhiều kẻ phạm tội, nhưng chưa thấy những con người đã tuyên bố sẽ giải quyết hoặc làm giảm nhẹ cuộc khủng hoảng làm được điều gì trên thực tế cho tốt hơn. Chỉ có thể khẳng định rằng, những nhà viết sử và những nhà báo viết về tài chính có lẽ sẽ còn tiếp tục bàn về vấn đề này trong một thời gian dài nữa.