Từ điển
Dịch văn bản
 
Từ điển Anh - Việt
Tra từ
 
 
Dịch song ngữ - Y học - Sức khoẻ
Long car commutes risk health
Di chuyển xa bằng xe hơi ảnh hưởng xấu cho sức khỏe
Individuals with the longest commutes by car to and from work were the ones least likely to report frequently engaging in moderate to vigorous exercise, and most likely to show risk factors for poorer cardiovascular and metabolic health
Những người di chuyển đoạn đường dài nhất bằng xe hơi để đi làm và về nhà là những người thường ít tham gia các hoạt động thể dục thể thao từ vừa phải đến nặng nhất, và nhiều khả năng có các yếu tố nguy cơ cho sức khỏe tim mạch và chuyển hóa kém hơn.
These were the findings of a new study by Dr Christine M. Hoehner of Washington University in St. Louis, Missouri, in the US, and colleagues, that is published in the June issue of American Journal of Preventive Medicine.
Đây là kết quả của một nghiên cứu mới của Tiến sĩ Christine M. Hoehner của Đại học Washington ở St Louis, Missouri, Mỹ, và các đồng nghiệp, được công bố trên số ra tháng Sáu của Tạp chí Y tế dự phòng của Mỹ.
Hoehner told the press:
Hoehner nói với báo chí:
"This study yields new information about biological outcomes and commuting distance, an understudied contributor to sedentary behavior that is prevalent among employed adults."
"Nghiên cứu này mang lại những thông tin mới về kết quả sinh học và khoảng cách di chuyển, một yếu tố dự bị cho thói quen ít vận động phổ biến ở những người đi làm."
"It provides important evidence about potential mediators in the relationship between time spent driving and cardiovascular mortality," she added.
Nó cung cấp bằng chứng quan trọng về sự trung gian tiềm năng trong mối quan hệ giữa thời gian lái xe và tử vong vì nguyên nhân tim mạch", bà nói thêm.
As working people move further away from urban centres, so the tendency is to spend more and more hours in the car commuting to and from work.
Khi người lao động di chuyển xa khỏi trung tâm thành phố thì khuynh hướng là sử dụng ngày càng nhiều giờ trong xe để di chuyển đến và về nhà từ nơi làm việc.
We already know that spending too much time sitting is not good for cardiovascular and metabolic health. But we know little about the extent to which this applies to car commuting, write the authors.
Chúng ta đã biết là dành quá nhiều thời gian ngồi sẽ không tốt cho sức khỏe tim mạch và chuyển hóa. Nhưng chúng ta biết rất ít về mức độ này áp dụng cho việc di chuyển bằng xe, các tác giả viết.
Hoehner and colleagues found that longer commuting distances were linked to reduced cardiorespiratory fitness (CRF), increased weight, and other indicators of metabolic risk.
Hoehner và đồng nghiệp nhận thấy là khoảng cách di chuyển dài hơn có liên quan đến giảm tình trạng khỏe mạnh của tim phổi, tăng cân và các chỉ số khác về nguy cơ chuyển hóa.
For their study, they used data on 4,297 people who lived and worked in eleven counties in the Dallas-Fort Worth or Austin, Texas metropolitan areas.
Trong nghiên cứu, họ đã sử dụng dữ liệu trên 4.297 người sống và làm việc trong 11 quận trong Dallas-Fort Worth, Austin, khu vực đô thị của Texas.
All the participants had had comprehensive medical checks between 2000 and 2007, and their records also included geo-coded addresses of home and workplaces.
Tất cả những người tham gia đã kiểm tra sức khỏe tổng quát trong giai đoạn 2000 và 2007, và hồ sơ của họ cũng bao gồm mã hóa địa lý của địa chỉ nhà và nơi làm việc.
For health indicators, the researchers included in their analysis CRF, body mass index (BMI), and a range of metabolic risk variables including: waist circumference, fasting triglycerides, fasting plasma glucose, high-density lipoprotein (HDL) cholesterol, and blood pressure.
Đối với các chỉ số sức khỏe, các nhà nghiên cứu bao gồm trong phân tích CRF của họ, chỉ số khối cơ thể (BMI), và một loạt các biến của nguy cơ chuyển hóa bao gồm: vòng bụng, ăn kiêng các li-pít trung tính, ăn kiêng các glu-cô thể pla-xma, li-pô prô-tê-in tỷ trọng cao (HDL) cô-lét-xtê-ron, và huyết áp.
The participants had also filled in questionnaires about daily exercise, from which the researchers were able to assess their moderate to vigorous physical activity in the previous three months.
Những người tham gia cũng đã điền vào bảng câu hỏi về tập thể dục hàng ngày, mà từ đó các nhà nghiên đã có thể đánh giá hoạt động thể chất từ vừa cho đến nặng của họ trong 3 tháng trước đó.
For commuting distances, they applied mapping and geographic software to the geocoded addresses to calculate the shortest driving distances between home and work.
Đối với khoảng cách đi lại, họ áp dụng lập bản đồ và phần mềm địa lý địa chỉ được mã hóa để tính toán khoảng cách lái xe ngắn nhất giữa nhà và chỗ làm.
The results showed that the participants who drove the longest distances to work reported engaging less frequently in moderate to vigorous physical activity.
Kết quả cho thấy rằng những người tham dự lái xe đi làm việc ở khoảng cách xa nhất báo cáo không tham gia thường xuyên vào các hoạt động thể chất từ vừa cho đến nặng.
They were also the ones with the lowest CRF, and the highest BMI, waist siz​e, and blood pressure.
Họ cũng là những người với chỉ số CRF thấp nhất, và chỉ số BMI, kích thước vòng eo, huyết áp cao nhất.
The link with blood pressure stayed the same when the researchers adjusted for physical activity and CRF, and was also still present for BMI and waist siz​e, although to a lesser degree.
Mối liên hệ với huyết áp vẫn không thay đổi khi các nhà nghiên cứu điều chỉnh hoạt động thể chất và CRF, và cũng vẫn còn hiện diện cho chỉ số BMI và vòng eo, mặc dù ở mức độ thấp hơn.
In particular, commuting more than 10 miles to work was linked with high blood pressure.
Đặc biệt, di chuyển hơn 10 dặm để đi làm liên quan đến bị cao huyết áp.
Also, those participants who commuted further than 15 miles to work were the least likely to be exercising at the level recommended by government guidelines, and the ones most likely to have BMIs in the obese range.
Ngoài ra, những người tham gia di chuyển xa hơn 15 dặm để làm việc ít có khả năng tập thể dục ở mức độ được đề nghị theo các hướng dẫn của chính phủ, và những người có thể có chỉ số BMI trong khoảng béo phì.
Hoehner said, given the link between commuting distance and physical activity and CRF, that longer commutes could be displacing time spent in physical activity, since the effect on BMI was lessened somewhat when adjusting for physical activity.
Hoehner cho biết, do sự liên kết giữa khoảng cách đi lại và hoạt động thể chất và chỉ số CRF, sự di chuyển dài hơn còn có thể thay thế thời gian trải qua trong hoạt động thể lực, vì ảnh hưởng trên BMI đã được giảm bớt phần nào khi điều chỉnh cho hoạt động thể lực.
However, "... both BMI and waist circumference were associated with commuting distance even after adjustment of physical activity and CRF, suggesting that a longer commuting distance may lead to a reduction in overall energy expenditure," she added.
Tuy nhiên, "... cả hai chỉ số BMI và chu vi vòng eo có liên quan với khoảng cách đi lại, ngay cả sau khi điều chỉnh hoạt động thể chất và CRF, cho thấy khoảng cách đi lại dài hơn có thể dẫn đến giảm trong việc sử dụng năng lượng tổng thể, " bà nói thêm.
She and her colleagues conclude:
Bà và đồng nghiệp kết luận:
"This study contributed additional information about possible mechanisms underlying the increased risk of obesity, hypertension, and poor physical health observed among adults living in more-sprawling communities."
"Nghiên cứu này đóng góp thêm thông tin về các cơ chế có thể tiềm ẩn nguy cơ tăng huyết áp, béo phì và sức khỏe thể chất kém quan sát thấy ở người trưởng thành sống trong những cộng đồng ít vận động hơn."
"Multilevel strategies in the home, worksite, and community settings will be needed to mitigate the negative health consequences of long commutes faced by a substantial segment of the U.S. population," they urge.
"Các chiến lược đa cấp trong nhà, nơi làm việc, và các tổ chức cộng đồng sẽ cần thiết để giảm thiểu hậu quả y tế tiêu cực của việc di chuyển dài mà một bộ phận đáng kể dân số Hoa Kỳ phải đối mặt," họ kêu gọi.
They also point out that car commuting is only one of many types of sedentary form, and the study did not take others into account, such as watching TV or sitting at work.
Họ cũng chỉ ra rằng di chuyển bằng xe hơi chỉ là một trong nhiều dạng dành thời gian ngồi quá nhiều, và nghiên cứu không tính đến những người khác, chẳng hạn như những người ngồi xem TV hay ngồi tại nơi làm việc.
Hoehner said we need more research to assess sedentary time across a range of behaviors to establish more securely the independent effects of commuting on health.
Hoehner nói chúng ta cần nghiên cứu thêm để đánh giá thời gian ít vận động qua một loạt các hành vi để thiết lập an toàn hơn cho những tác động độc lập của việc đi lại đối với sức khỏe.
Written by Catharine Paddock PhD
Copyright: Medical News Today

Tác giả: Tiến sĩ Catharine Paddock
Bản quyền: Medical News Today

 
Đăng bởi: thanhthanh
Bình luận
Đăng bình luận
Bình luận
Đăng bình luận
Vui lòng đăng nhập để viết bình luận.