Từ điển
Dịch văn bản
 
Từ điển Anh - Việt
Tra từ
 
 
Dịch song ngữ - Văn học - Tiểu thuyết - Truyện ngắn
The Monkey's Paw (part 4)
Bàn tay khỉ (phần 4)
In the huge new cemetery, some two miles distant, the old people buried their dead, and came back to a house steeped in shadow and silence. It was all over so quickly that at first they could hardly realize it, and remained in a state of expectation, as though of something else to happen--something else which was to lighten this load, too heavy for old hearts to bear. But the days passed, and expectation gave place to resignation--the hopeless resignation of the old, sometimes miscalled apathy. Sometimes they hardly exchanged a word, for now they had nothing to talk about, and their days were long to weariness.
Tại một nghĩa trang lớn mới xây cách đó chừng hai dặm, hai vợ chồng già chôn cất đứa con trai của mình và quay về ngôi nhà tối tăm và cô quạnh. Mọi chuyện chấm dứt quá nhanh đến độ họ không kịp hiểu được chuyện gì đang diễn ra và họ vẫn còn kỳ vọng một chuyện nào khác xảy ra (chứ không phải là cái chết của đứa con) – một chuyện nào đó mà có thể trút bớt cái gánh nặng đang đè lên hai trái tim già nua cằn cỗi. Rồi ngày ngày lại trôi qua, kỳ vọng đó nhường chỗ cho nỗi cam chịu – một sự cam chịu vô vọng của người già, mà đôi khi người ta tưởng nhầm là sự thờ ơ lãnh cảm. Đôi khi, họ hầu như không nói với nhau lời nào, vì rằng giờ đây chẳng có gì để nói, và ngày dài lê thê cứ trôi qua trong sầu não.
In the huge new cemetery, some two miles distant, the old people buried their dead, and came back to a house steeped in shadow and silence. It was all over so quickly that at first they could hardly realize it, and remained in a state of expectation, as though of something else to happen--something else which was to lighten this load, too heavy for old hearts to bear. But the days passed, and expectation gave place to resignation--the hopeless resignation of the old, sometimes miscalled apathy. Sometimes they hardly exchanged a word, for now they had nothing to talk about, and their days were long to weariness.
Tại một nghĩa trang lớn mới xây cách đó chừng hai dặm, hai vợ chồng già chôn cất đứa con trai của mình và quay về ngôi nhà tối tăm và cô quạnh. Mọi chuyện chấm dứt quá nhanh đến độ họ không kịp hiểu được chuyện gì đang diễn ra và họ vẫn còn kỳ vọng một chuyện nào khác xảy ra (chứ không phải là cái chết của đứa con) – một chuyện nào đó mà có thể trút bớt cái gánh nặng đang đè lên hai trái tim già nua cằn cỗi. Rồi ngày ngày lại trôi qua, kỳ vọng đó nhường chỗ cho nỗi cam chịu – một sự cam chịu vô vọng của người già, mà đôi khi người ta tưởng nhầm là sự thờ ơ lãnh cảm. Đôi khi, họ hầu như không nói với nhau lời nào, vì rằng giờ đây chẳng có gì để nói, và ngày dài lê thê cứ trôi qua trong sầu não.
It was about a week after that that the old man, waking suddenly in the night, stretched out his hand and found himself alone. The room was in darkness, and the sound of subdued weeping came from the window. He raised himself in bed and listened.
Khoảng một tuần cái chết người con, một đêm nọ ông lão giật mình thức giấc lúc giữa đêm, ông với tay sang phía vợ và chẳng thấy bà đâu cả trên chiếc giường của họ. Căn phòng dày đặc trong bóng tối, và ông nghe đâu có tiếng than khóc ỉ ôi bên cửa sổ. Ông ngồi nhỏm dậy và lắng nghe.
"Come back," he said tenderly. "You will be cold."
"Hãy đi ngủ đi," ông dịu dàng nói. "Coi chừng bà bị cảm lạnh đấy."
"It is colder for my son," said the old woman, and wept afresh.
"Con trai tôi còn chịu cái lạnh hơn thế," bà cụ nói, và lại oà khóc.
The sound of her sobs died away on his ears. The bed was -warm, and his eyes heavy with sleep. He dozed fitfully, and then slept until a sudden cry from his wife awoke him with a start.
Tiếng khóc nức nở của bà dần chìm đi bên tai ông. Chiếc giường ấm áp và đôi mắt ông nặng trĩu vì cơn buồn ngủ ập đến. Ông chìm trong giấc ngủ chập chờn, rồi ngủ thiếp đi cho đến khi bà vợ đột ngột thét lên khiến ông tỉnh giấc.
"The monkey's paw!" she cried wildly. "The monkey's paw!"
"Bàn tay khỉ!" bà kêu lên thảm thiết. "Bàn tay khỉ!"
He started up in alarm. "Where? Where is it? What's the matter?" She came stumbling across the room toward him. "I want it," she said quietly. "You've not destroyed it?"
Ông hoảng hốt bật dậy. "Đâu? Nó đâu? Có chuyện gì?" Bà loạng choạng băng ngang phòng đến bên ông. "Tôi muốn nó," bà khẽ nói. "Ông chưa vứt nó đi chứ? "
"It's in the parlor, on the bracket," he replied, marveling. "Why?"
"Nó ở trên kệ trong phòng khách" ông trả lời kinh ngạc. "Tại sao bà cần nó?"
She cried and laughed together, and bending over, kissed his cheek.
Bà vừa cười vừa khóc, và cúi xuống, hôn lên má ông.
"I only just thought of it," she said hysterically. "Why didn't I think of it before? Why didn't you think of it?"
"Tôi mới vừa nghĩ ra nó," bà nói lắp bắp. "Tại sao tới bây giờ tôi mới nghĩ ra nhỉ? Tại sao ông không nghĩ đến nó?"
"Think of what?" he questioned.
"Nghĩ đến cái gì?" ông hỏi.
"The other two wishes," she replied rapidly. "We've only had one."
"Hai điều ước còn lại," bà liền trả lời. "Chúng ta chỉ mới ước có một điều thôi."
"Was not that enough?" he demanded fiercely.
"Như thế vẫn chưa đủ hay sao?" ông gắt gỏng.
"No," she cried triumphantly; "we'll have one more. Go down and get it quickly, and wish our boy alive again."
"Chưa," bà đắc chí; "Chúng ta sẽ ước một điều nữa. Hãy xuống dưới nhà và lấy nó nhanh lên, và ước con trai chúng ta sẽ sống lại."
The man sat up in bed and flung the bedclothes from his quaking limbs. "Good God, you are mad!" he cried, aghast.
Người đàn ông ngồi bật dậy trên giường và ném đống mền gối trong đôi tay run rẩy. "Ôi lạy Chúa lòng lành, bà điên mất rồi!" ông thốt lên kinh hoàng.
"Get it," she panted; "get it quickly, and wish-- Oh, my boy, my boy!"
"Hãy lấy nó," bà giục; "hãy lấy nó mau và ước nhanh đi --- Ôi, con trai tôi, con trai của tôi! "
Her husband struck a match and lit the candle. "Get back to bed," he said unsteadily. "You don't know what you are saying."
Người chồng quẹt một que diêm và châm nến. "Trở lại giường ngủ đi," ông nói với giọng lung lay. "Bà không biết bà đang nói cái gì đâu."
"We had the first wish granted," said the old woman feverishly; "why not the second?"
"Chúng ta đã được toại nguyện điều ước đầu tiên," bà cụ vội nói; "tại sao lại không thử điều ước thứ hai?"
"A coincidence," stammered the old man.
"Đó là một sự trùng hợp ngẫu nhiên," ông lão lắp bắp.
"Go and get it and wish," cried the old woman, and dragged him toward the door.
"Hãy đi tìm nó và ước đi," bà cụ van nài, và đẩy ông ra cửa.
He went down in the darkness, and felt his way to the parlor, and then to the mantelpiece. The talisman was in its place, and a horrible fear that the unspoken wish might bring his mutilated son before him ere he could escape from the room seized upon him, and he caught his breath as he found that he had lost the direction of the door. His brow cold with sweat, he felt his way around the table, and groped along the wall until he found himself in the small passage with the unwholesome thing in his hand.
Ông đi xuống lầu trong bóng tối, và dò dẫm tìm đường đi ra phòng khách, rồi đến bên mặt lò sưởi. Lá bùa vẫn còn yên vị ở chỗ của nó, và một nỗi sợ hãi châm chiếm ông – ông sợ lời ước chưa nói ấy sẽ mang người con trai hình hài không còn nguyên vẹn xuất hiện trước mặt ông trước khi ông kịp chạy ra khỏi căn phòng, và khi nhận thấy không tìm thấy cửa ra, ông cố trấn an mình. Trán ông lạnh toát mồ hôi và ông lần mò đi quanh bàn và men theo tường cho đến khi ra được hàng lang nhỏ với cái thứ bùa độc trên tay.
Even his wife's face seemed changed as he entered the room. It was white and expectant, and to his fears seemed to have an unnatural look upon it. He was afraid of her.
Gương mặt bà vợ dường như biến sắc khi ông bước vào phòng. Sắc mặc vừa tái nhợt lại vừa hăm hở, và ông cảm thấy sợ hãi khi nhìn thấy cái nét mặt khác thường đó của bà. Ông sợ bà.
"Wish!" she cried, in a strong voice.
"Ước đi!" bà quát lên.
"It is foolish and wicked," he faltered.
"Việc này hết sức dại dột và điên rồ" ông ấp úng.
"Wish!" repeated his wife.
"Ước đi!" vợ ông lặp lại.
He raised his hand. "I wish my son alive again."
Ông giơ tay lên. "Tôi ước con trai tôi sống lại."
The talisman fell to the floor, and he regarded it shudderingly. Then he sank trembling into a chair as the old woman, with burning eyes, walked to the window and raised the blind.
Lá bùa rơi xuống sàn nhà, và ông trừng trừng nhìn nó, rùng mình hoảng sợ. Sau đó ông run rẩy thả mình xuống cái ghế khi bà cụ với đôi mắt háo hức đi đến cửa sổ và vén bức màn lên.
He sat until he was chilled with the cold, glancing occasionally at the figure of the old woman peering through the window. The candle end, which had burned below the rim of the china candlestick, was throwing pulsating shadows on the ceiling and walls, until, with a flicker larger than the rest, it expired. The old man, with an unspeakable sense of relief at the failure of the talisman, crept back to his bed, and a minute or two afterward the old woman came silently and apathetically beside him.
Ông ngồi đó cho đến khi rùng mình vì lạnh, thỉnh thoảng ông liếc nhìn sang bà vợ đang trông ngóng ra cửa sổ. Ngọn đèn cầy cháy gần hết bên dưới mép giá đỡ bằng sứ, hắt những cái bóng nhập nhoạng lên trần nhà và bốn bức tường, cho đến khi nó cháy sáng rực hơn bao giờ hết rồi phụt tắt. Ông lão, với cảm giác nhẹ nhõm trong bụng khi nghĩ rằng cái bùa không còn linh nghiệm, đã quay trở lại giường, và một hai phút sau bà cụ lặng lẽ đến bên và thờ ơ nằm bên cạnh ông.
Neither spoke, but both lay silently listening to the ticking of the clock. A stair creaked, and a squeaky mouse scurried noisily through the wall. The darkness was oppressive, and after lying for some time screwing up his courage, the husband took the box of matches, and striking one, went downstairs for a candle.
Cả hai đều không nói với ai lời nào, nhưng họ nằm đó trong im lặng, lắng nghe tiếng đồng hồ tích tắc. Cầu thang cót két, và một con chuột vụt chạy qua bức tường kêu chít chít. Bóng tối đè nặng không gian, và sau khi nằm được một hồi thu hết can đảm, ông chồng cầm một hộp diêm và quẹt một que diêm, đi xuống cầu thang để lấy đèn cầy.
At the foot of the stairs the match went out, and he paused to strike another, and at the same moment a knock, so quiet and stealthy as to be scarcely audible, sounded on the front door.
Khi xuống hết cầu thang que diêm tắt liệm, ông dừng và quẹt một que diêm khác, và ngay khoảnh khắc đó, một tiếng gõ cửa len lén và khẽ  khàng đến độ khó mà nghe thấy vang lên ngoài cửa chính.
The matches fell from his hand. He stood motionless, his breath suspended until the knock was repeated. Then he turned and fled swiftly back to his room, and closed the door behind him. A third knock sounded through the house.
Hộp diêm rơi từ trên tay ông xuống đất. Ông đứng đó bất động, nín thở cho đến khi tiếng gõ cửa lại vang lên. Rồi ông quay đầu, chạy nhanh trốn về phòng và đóng cánh cửa phòng lại sau lưng ông. Tiếng gõ cửa thứ ba vang dội khắp căn nhà.
"What's that?" cried the old woman, starting up.
"Chuyện gì thế?" bà cụ giật mình hỏi.
"A rat," said the old man, in shaking tones, "a rat. It passed me on the stairs."
"Chuột," ông lão run sợ đáp, "một con chuột. Nó đã chạy qua chân tôi trên cầu thang."
His wife sat up in bed listening. A loud knock resounded through the house.
Bà vợ ông ngồi bật dậy trên giường lắng nghe. Một tiếng gõ cửa lớn lại đánh động cả căn nhà.
"It's Herbert!" she screamed. "It's Herbert!"
"Là Herbert!" bà thét lên. "Chính là Herbert!"
She ran to the door, but her husband was before her, and catching her by the arm, held her tightly.
Bà chạy ra đến cửa, nhưng chồng bà ngăn bà lại, chộp lấy cánh tay bà và ôm bà thật chặt.
"What are you going to do?" he whispered hoarsely.
"Bà tính làm gì?" ông thì thầm bằng giọng khản đục.
"It's my boy; it's Herbert!" she cried, struggling mechanically. "I forgot it was two miles away. What are you holding me for? Let go. I must open the door."
"Đó là con trai tôi; là Herbert!" bà khóc, cố vùng vẫy thoát ra. "Tôi quên nghĩa trang cách nhà mình đến hai dặm. Tại sao ông lại cản tôi? Thả tôi ra. Tôi phải mở cửa."
"For God's sake don't let it in," cried the old man, trembling.
"Vì Chúa xin bà đừng mở cửa cho nó vào," ông lão run rẩy hét lên.
"You're afraid of your own son," she cried, struggling. "Let me go. I'm coming, Herbert; I'm coming."
"Ông sợ hãi chính đứa con trai của mình," bà vừa than khóc vừa vùng vẫy. "Hãy để tôi đi. Mẹ đến đây, Herbert; mẹ đang đến đây. "
There was another knock, and another. The old woman with a sudden wrench broke free and ran from the room. Her husband followed to the landing, and called after her appealingly as she hurried downstairs. He heard the chain rattle back and the bottom bolt drawn slowly and stiffly from the socket. Then the old woman's voice, strained and panting.
Một tiếng gõ cửa khác vang lên rồi một tiếng nữa nối tiếp sau đó. Bà cụ đột ngột giật mạnh thoát ra và chạy ra khỏi phòng. Chồng bà chạy ra tới cầu thang và gọi theo giọng khẩn nài khi bà lao xuống cầu thang. Ông nghe thấy tiếng dây xích lách cách và tiếng chốt cửa dưới rít chầm chậm bật ra khỏi hốc cửa. Và tiếng bà cụ vang lên hổn hển.
"The bolt," she cried loudly. "Come down. I can't reach it."
"Cái chốt," bà réo lên ầm ĩ. "Xuống đây mau. Tôi không thể với tới cái chốt trên."
But her husband was on his hands and knees groping wildly on the floor in search of the paw. If he could only find it before the thing outside got in. A perfect fusillade of knocks reverberated through the house, and he heard the scraping of a chair as his wife put it down in the passage against the door. He heard the creaking of the bolt as it came slowly back, and at the same moment, he found the monkey's paw, and frantically breathed his third and last wish.
Nhưng ông chồng bà đang bò ra sàn, hai tay quơ quào cuồng loạn tìm bàn tay khỉ. Ông chỉ mong sao tìm thấy nó trước khi cái thứ đang ở bên ngoài ấy bước vào nhà. Tiếng đập cửa ầm ầm vang dội khắp căn nhà, và ông nghe tiếng bà vợ kéo lê một chiếc ghế đặt ngay lối đi sát cánh cửa. Ông nghe tiếng chốt cửa khi nó từ từ kéo lùi lại, và ngay lúc đó, ông tìm thấy bàn tay khỉ, và ông hốt hoảng thốt lên điều ước thứ ba và cũng là điều ước cuối cùng.
The knocking ceased suddenly, although the echoes of it were still in the house. He heard the chair drawn back and the door opened. A cold wind rushed up the staircase, and a long, loud wail of disappointment and misery from his wife gave him courage to run down to her side, and then to the gate beyond. The streetlamp flickering opposite shone on a quiet and deserted road.
Tiếng gõ cửa đột ngột im bặt, mặc dù tiếng vọng của nó vẫn còn lanh lảnh âm vang trong ngôi nhà. Ông nghe thấy tiếng ghế kéo xê dịch lại và cánh cửa mở ra. Một cơn gió lạnh lùa vào cầu thang và rồi bà vợ cất lên tiếng rên khóc dai dẳng đau khổ và tuyệt vọng, khiến ông lấy hết can đảm chạy xuống đến bên bà, rồi ông chạy đến cánh cổng phía ngoài. Ngọn đèn đường đối diện phả thứ ánh sáng lập loè xuống con đường vắng lặng không một bóng người.
 
Đăng bởi: tvmthu
Bình luận
Đăng bình luận
Bình luận
Đăng bình luận
Vui lòng đăng nhập để viết bình luận.